Nguyệt Hạ Lão Nhân
Nguyệt hạ lão nhân là vị thần chuyên lo việc hôn nhân. Theo Thẩm Tam Bạch ghi trong sách “Phú sinh lục ký” thì vị thần này một tay cầm dây tơ đỏ, một tay chống cây gậy trên đầu có đeo sổ hôn nhân, sắc mặt như trẻ thơ mà tóc bạc trắng, đi lại giữa mịt mù không ra khói, không ra sương.
Người ta cho rằng Nguyệt lão là thần nhân duyên, chuyên se duyên cho các đôi trai gái. Ông lấy sợi dây đỏ buộc chân họ lại với nhau, đã buộc ai vào ai thì dù cách núi sông cũng đến được với nhau, còn nếu hai người không có dây đỏ buộc chân vào nhau thì có ở kề bên nhau cũng không nên duyên chồng vợ được.
Rất nhiều nơi ở Trung Quốc có đền Nguyệt lão. Trong Bạch Vân Am dưới núi Cô Sơn ở bên Tây Hồ – Hàng Châu có Nguyệt lão điện, thờ thần Nguyệt lão.
Trong hôn lễ ở Trung Quốc còn có phong tục buộc dây tơ hồng, hoặc đôi trai gái cầm một dải lụa đỏ đi vào phòng cưới… Tế thần Nguyệt lão (hay tế tơ hồng) cũng trở thành một nghi thức trong hôn lễ xưa.
Thái Dương Tinh Quân và Thái Âm Tinh Quân
Thái Cực là nguyên lý cùng tột của vũ trụ. Đó là chân lý tuyệt đối, tối thượng, bất biến, hằng hữu, sinh ra càn khôn vũ trụ và vạn vật. Khi Thái Cực phân ra Lưỡng Nghi, rồi Lưỡng Nghi phân ra Tứ Tượng thì Tứ Tượng gồm: Thái Dương, Thiếu Dương, Thái Âm và Thiếu Âm. Thái Dương chỉ mặt trời, Thái Âm chỉ Mặt trăng. Vị Tiên cai quản Mặt Trời và Mặt Trăng là Thái Dương Tinh Quân và Thái Âm Tinh Quân.
Lôi Công Lôi Chấn Tử
Theo truyền thuyết thì Lôi Chấn Tử vốn là một trong những người con của Tây Bá Hầu Cơ Phát ( sau này là Chu Vũ Vương ).
Khi Cửu Vĩ Hồ ăn trộm đào tiên và bị bắt, quả đào đó rơi vào tay Thân Công Báo. Thân Công Báo ăn quả đào tiên quá vội vàng, nên ăn luôn cả hạt, do đó không thể tiêu hoá. Khương Tử Nha giúp Thân Công Báo lấy hạt đào ra, lúc đó hạt đào đã hấp thụ chướng khí trong bụng trở thành hạt cây yêu quái. Khương Tử Nha Quăng hạt đào đi, nó rơi xuống đất, mọc lên thành cây Yêu Quái.
Khuôn mặt Lôi Chấn Tử vốn rất khôi ngô tuấn tú, nhưng do ăn nhầm phải quả cây Yêu Quái đó mà bỗng biến dạng, thân hình ông bỗng mọc ra cánh. Bất chấp hình dạng bị mọi người xa lánh, ông vẫn hết lòng phò Chu diệt Thương, vì vậy mà được Nữ Oa phong làm Lôi Thần ( hay Lôi Công ), mà mọi người vẫn quen gọi là Thiên Lôi, Sau này được Phong làm Lôi Bố Chính Thần
Giống Thái Tử Na Tra và Nhị Lang Thần Dương Tiễn, hình ảnh ông Thiên Lôi với đôi cánh, sử dụng búa và chiếc cọc [ Lôi Công Tạt ] để tạo ra sấm sét cõ lẽ cũng khá quen thuộc với người Á Đông.
Thần Thanh Long và Thần Bạch hổ
Thần Thanh Long còn gọi là Mạnh Chương thần quân, thần Bạch hổ còn gọi là GIám Binh thần quân. Hai vị thần này chịu trách nhiệm thị vệ quan sơn môn. Theo Đạo giáo vốn có 4 vị thần hộ về là Thanh Long, Bạch hổ, Chu tước, Huyền VŨ. Nhị thập bát tú(28 ngôi sao) lấy Bắc Đẩu(chòm sao Đại hùng) làm khởi điểm mà sắp xếp các vì sao, tên gọi của 28 ngôi sao ấy có liên quan đến Tứ Tượng là:
Bảy sao Thanh Long ở phương Đông: Giác, Nguyên, Đê, Phòng, Tâm , Vĩ.
Bảy sao Huyền Vũ ở phương Bắc: Đẩu, Ngưu, Nữ ,Hư, Nguy, Thất, Bích.
Bảy sao Bạch Hổ ở phương Tây: Khuê, Lâu, Vị,Ngang, Tất, Chủy, Sâm.
Bảy sao Chu Tước ở phương Nam:Tỉnh, Quỷ,Liễu,Tinh,Trương,Dực,Chẩn.
Tứ Tương, còn gọi là Tứ phương tứ thần, đương thời đã đựơc vận dụng rộng rãi trong bày trận, đựơc coi như thần bảo hộ. Quân đội khi hành quân thì "Chu Tước đi trước,Huyền Vũ đi sau,bên tả là Thanh Long, bên hữu là Bạch Hổ".
Linh Quy - Quy Tiên
Quy (hay rùa) là một trong 4 linh vật của tứ linh theo tín ngưỡng. Nó đã xuất hiện trong nhiều truyện thần thoại và truyền thuyết từ lâu đời , nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đó là bóng dáng của thần Visnou, một tối thượng thần của đạo Bà la môn.
Có quan niệm cho rằng Quy không hòan toàn là rùa, mà chỉ là một loài vật thiêng có hình giáng tương tự ( giống như Kỳ Lân không phải hoàn toàn là Sư Tử ). Quy ăn rau cỏ, hay có khi không ăn, chỉ hớp sương mà sống. Qui sống rất lâu năm, nếu Qui sống được 5000 năm thì gọi là Thần Qui, nếu Qui sống được 10 000 năm thì gọi là Linh Qui. Tương truyền, rừng nào có Thần Qui ở thì rừng ấy không có cây độc hại, không có thú dữ như hùm, báo, rắn rết...
Ở lĩnh vực tâm linh, Quy được coi là vật hợp bởi cả âm lẫn dương: bụng phẳng tượng trưng cho đất (âm), mai khum tượng trưng cho trời (dương). Hình tượng rùa đội bia tượng trưng cho hạnh phúc, phát triển và sự chịu đựng. Ngoài ra, người ta còn thờ quy vì coi quy là biểu tượng của sự trường thọ ( vì loài rùa là loài sống rất lâu ), hay coi quy là chủ nguồn nước, là linh vật của đât phật.
Tả Từ
Mùa đông tháng 10 năm ấy, cung thất Nguỵ vương đã dựng xong ở Nghiệp Quận, Tháo sai người đi khắp các nơi thu thập những giống kỳ hoa dị quả về trồng ở vường hậu uyển. Ngày kia một sứ giả tới đất Ngô, vào yết kiến Tôn Quyền truyền lệnh chỉ của Nguỵ vương, bảo tới ôn Châu lấy cam. bây giờ là lúc Tôn Quyền đang cần tôn nhường Tháo, nên sai người đến ngay ôn Châu lựa hơn bốn mươi chín gánh cam quả to vị ngọt, rồi đưa suốt ngày đêm lên Nghiệp Quận. Bọn phu gánh cam nửa đường mệt mỏi, hạ gánh ngồi nhỉ dưới chân núi. Bỗng thấy một vị " tiên sinh " mắt to mắt híp, chân dài chân thọt, đội nón mây, mặc áo vải xanh, đi đôi guốc gỗ, khập khà khập khiễng tới hỏi chuyện rồi bảo họ rằng :
- Các ảnh phải gánh nặng đường dài vất vả quá, để bần đạo gánh đỡ cho mỗi người một quãng nhé ?
Bọn phu mừng hớn hở, bằng lòng ngay. Người ấy bèn lần lượt gánh đỡ cho mỗi tên phu năm dặm đường. Và lạ thay : ông ấy gánh qua gánh nào, là gánh ấy nhẹ thõm hẳn đi ! Ai đỡ lấy gánh lại, đều giật mình nghi lạ... Trước khi chia tay, ông ta có dặn viên quan chờ cam :
- Bần đạo vốn là bạn thân cùng làng với Nguỵ Vương, họ Tả, tên Từ, tự là Nguyên Phóng, đạo hiệu là " Ô Giốc tiên sinh " đây. Vậy khi về Nguyệp Quận, ông nhớ nói giùm rằng : TảTừ có lời thăm ngài nhé !
Dặn rồi phất tay áo mà đi. Viên quan tải cam về đến Nghiệp quân, vào phục mệnh Tháo, dâng cam lên. Tháo tự tay bóc một quả, bỗng giật mình : cam chỉ có vỏ, bên trong... rỗng tuếch ! Tháo kinh ngạc cật vẫn viên quan, người này lo sợ, phải kể lại câu chuyện gặp Tả Từ ở dọc đường. Tháo nghe nói lạ lùng chưa chịu tin, thì vừa vặn lúc ấy người canh cửa vào báo :
- Có một vị tiên sinh tự xưng là Tả Từ, xin vào yết kiến đại vương !
Tháo liên triệu vào. Viên quan tải cam vừa trông ra cửa, vội bẩm ngay :
- Bẩm đại vương, người này đúng là người chúng tôi đã gặp ở dọc đường đấy ạ !
Tả Từ bước vào, thái nạt ngay rằng :
- Ngươi dùng yêu thật gì mà móc ruột quả ngon của ta ?
Từ cưới nói :
- Lại có chuyện lạ thế sao ?
Rồi cầm ngay mấy quả cam bóc ra, quả nào cũng đầy múi dâng lên... Tháo thấy mùi thơm vị rất ngọt. Nhưng hễ Tháo bóc quả nào thì quả ấy chỉ có vỏ ! Tháo càng nghi hoặc, bèn cho Từ ngồi, rồi hỏi chuyện. Từ đòi rượt thịt. Tháo truyền đem lên ngay. Từ uống luôn năm đấu rượu mà không hề say, ăn hết cả con dê lớn vẫn chưa no. Tháo hỏi :
- Ngươi có thuật gì mà ăn khoẻ thế ?
Từ nói :
- Trước đây bần đạo ở vùng Gia Lăng, xứ Tây Xuyên, vào núi Nga Mi học đạo được ba mươi năm, thì bỗng một hôm nghe có tiếng người gọi tên bần đạo từ vách đá vẳng ra ! Quay nhìn, lại chẳng thấy ai cả. Cứ như thế luôn mấy ngày, rồi bỗng có sấm ran chấp giật, một tiếng sét nổ xé vách đá, bắn ra ba quyển thiên thư. Bần đạo cầm xem, thấy tên sách là " Độn giáp thiên thư ". Quyển thượng là thiên độn, quyển trung là địa độn, quyển hạ là nhân độn. Học thiên độn thì biết cưỡi mây đạp gió, bay bổng trên cõi Thái Hư. Học địa độn thì có thể xuyên qua núi đá, ẩn mình dưới đất sâu. Học nhân độn thì biết phép lướt mình bất thần, vân du bốn bể, tàng hình biến tướng, phi kiếm, liệng dao lấy đầu người như chơi. Như đại vương nay, ngôi nhân thần đã lên cao đến tột bậc rồi, còn đợi gì mà không lui về cho nhàn tản ? Hãy theo bần đạo đến núi Nga My tu hành, Bần đạo sẽ truyền cho ba cuốn thiên thư đó !
Tháo nói :
- Ta vẫn muốn từ quan về ẩn dật đã lâu, ngặt vì trong triều chưa kiếm được ai có thể thay ta được.
Từ cười nói :
- Có quan mục Ích Châu Lưu Huyền Đức là con cháu nhà vua tài đức có thừa ra đấy ! Sao không nhường tước vị này cho ông ấy đi ?
Rồi Từ bống trở giọng đột ngột :
- Này, bảo thật cho mà biết : Nếu không nghe, bần đạo sẽ phi kiếm lấy đầu nhà ngươi đấy !
Tháo đùng đùng nổi giận mắng :
- À ! Ra thằng này là quân do thám của Lưu Bị !
Và thét tả hữu giữ lập tức. Tả Từ không nói gì, cứ cười rộ lên từng tràng không ngớt. Tháo truyền đem bỏ ngục, sai mười mấy tên lính khảo đả... Bọn lính ngục ra sức đánh thật đau mà chẳng thấy Từ kêu một tiếng. Bọn lính hì hục mãi toát mồ hôi, mỏi rời cả tay, mới ngừng tra, nhìn lại... thì thấy Từ đã... ngủ li bì, ngáy khò khò như sấm, trơ trơ như gỗ. Tháo tức giận, sai tống vào nhà lao, đem gống sắt đóng vào cổ, lấy dây sắt thật lớn xiết tay chân, rồi đem vòng sắt khoá lại, cắt quân canh giữ cẩn thận. Nhưng quân vừa ngoảnh đi, quay lại đã thấy gông xiềng đứt hết cả, Tả Từ nằm thong dong trên mặt đất, tay chân mình mẩy chẳng hề xây xát chút gì. Giam cấm luôn bảy ngày chẳng cho ăn uông gì, khi quân canh nhìn vào, vẫn thấy Từ ngồi chễm chệ, sắc mặt lại còn hồng hào hơn trước ! Bọn ngục tốt phải bẩm với Tháo. Tháo cho dẫn Từ ra rồi gạn hỏi : " Sao ? Ngươi không đói ? " Từ mỉm cười nói :
- ta có nhịn ăn mấy mươi năm liền, cũng chẳng sao. Mà mỗi ngày một ngày con dê, ta ăn cũng hết !
Tháo đành chịu chẳng biết dùng cách nào nữa.
Rồi hôm ấy Tháo bày đại yến, các quan đến vương cung dự đông đủ. Đang lúc chung rượu, chợt thấy Tả Từ hiện ra sờ sờ chân đi guốc gỗ, vào đứng trước tiêc. Các quan đều giật mình kinh quái. Từ cất tiếng nói :
- Hôm nay đại vwong đem sơn hào hải vị ra đãi quần thần một đại yến, ắt của ngon vật lạ, bốn phương có nhiều rồi. Tuy nhiên, nếu thấy còn thiếu thức gì, bần đạo xin lấy ngay cho !
Tháo nói :
- Ta muốn có gan rồng nấu canh, ngươi lấy được khkông ?
- Ồ, có gì là khó ?
Nói rồi lấy bút mực tới bức tường vôi vẽ một con rồng, đoạn phất tay áo một cái, tức thì bụng con rồng vỡ ra. Từ thò tay vào trong moi ra một buồng gan, máu tươi con rồng chảy thánh thót. Tháo vẫn không tin, nói át đi rằng :
- Ngươi giấu trong tay áo từ trước chứ gì ?
Từ không cãi, chỉ hỏi xem :
- Hiện nay trời giá lạnh, cây cỏ chết khô. Vậy đại vương có thích hoa, thì muốn thứ hoa gì bần đạo lấy cho thứ ấy !
- Hãy lấy cho ta bông mẫu đơn !
- Dễ lắm !
Bèn bảo đem cái chậu sứ lớn râ trước tiệc, Từ lấy nước phun vào đất. Chỉ trong khoảnh khắc thấy một mầm mẫu đơn nứt ra, mọc dần dần thành cây, rồi trổ hai bông hoa tuyệt đẹp ! Các quan rất kinh ngạc, ngỏ lời nói mời Từ ngồi ăn uống. Một lát, nhà bếp dâng món gỏi cá lên. Từ lại nói :
- Ăn gỏi, thì phải có cá lư sông Tùng Giang mới ngon !
Tháo hỏi :
- Đường xa ngàn dặm, làm sao lấy được cá ấy ?
- Muốn lấy là được, có gì ?
Bèn bảo đem cần câu tới, rồi ra ngày cái ao trước vương cung ngồi câu, phút chốc đã giật lên mấy chục con cá Lư thật to lên thềm điện. Tháo nói :
- Cá nảy vẫn thả trong ao ta lâu nay ! Có gì lạ ?
Từ mỉm cười :
- Sao đại vương nói lèo bần đạo quá vậy ? Cá Lư khắp thiên hạ chỉ có hai mang. Riêng cá lư sông Tùng là có bốn mang mà thôi. Cứ xem đây thì biết, chẳng phải nói nhiều.
Các quan xúm vào xem, quả thấy cá vừa câu, con nào cũng có những bốn mang. Từ lại nói :
- Ăn gỏi cá lư Tùng Giang phải có chút gừng mầm mía mới ngon !
Tháo hỏi :
- Ngươi cũng lấy được chứ ?
- Nào có khó gì !
Bèn bảo bưng ra một cái chậu vàng. Từ lấy vạt áo phủ lên, chốc lát mở ra thấy đầy một chậu gừng mầm non đỏ tía, dâng lên Tháo. Tháo đưa tay cầm xem chợt thấy trong chậu có một quấn sách, bìa đề bốn chứ : " Mạnh Đức tân thư ". Tháo cầm lấy mở xem, thấy đúng là cuốn sách mình viết, chẳng sai một chữ ! Tháo rất nghi hoặc, lạ lùng. Từ đưa tay với cái chén ngọc trên án, rót đầy rượu, rồi dâng lên Tháo mà rằng :
- Mời đại vương uống chén rượu này, thọ lâu ngàn tuổi !
Tháo nghi hoặc bảo :
- Ngươi hãy uống trước đi !
Từ đàu tay lên đầu, rút chiếc trâm ngọc, rạch vào chén rượu một cái, tức thì rượu chia làm hai. Từ uống một nửa, rồi dâng Tháo một nửa. Tháo lại càng nghi, lớn tiếng gắt, gạt đi không uống. Từ bèn ném cái chén lên không trung, hoá thành con chim cu trắng bay vòng quanh điện. Các quan đều ngửa mặt lên trông, khi quay nhìn lại, thì Tả Từ đã biến đâu mất. Tháo đang bực tức chưa kịp nói sao, bỗng có người bảo : " Tả Từ đã ra đến cửa ngoài, đang bỏ đi..."
Tháo giận giữ nói :
- Giống yêu quái ấy, phải trừ đi, kẻo nó gây tai hại !
Liền sai Hứa Chử đem ba trăm quân mặc áo giáp sắt đuổi theo bắt lại. Chử lên ngựa kéo quân ra cửa thành thì thấy Tả Từ đang lê đôi guốc gỗ bước đi khập khiếng phía trước. Chử thúc ngựa đuổi bắt. Nhưng lạ thay : Tù cứ đi thong dong lững thững trước mặt, ngựa Chử phi như bay, mà vẫn không sao đuổi kịp. Khi đuổi đến chân một trái núi, gặp một thằng bé mục đồng xua một đàn dê tới, rồi thấy Tả Từ chạy lẫn vào giữa đàn dê. Hứa Chử rút cung lăp tên bắn một phát, Từ bỗng biến mất. Chử sấn tới khua đao chám hết cả đàn dê, rồi hầm hầm tức giận khéo quân về. Tôi nghiệp thằng bé chăn cừu cứ ôm mặt mà khóc. Bỗng thấy cái đầu dê lăn dưới đất há mõm nói tiếng người, gọi bảo thằng bé rằng :
- Mày hãy vác các đầu dê lắp vào cổ dê đi ! Đừng khóc nữa !
Thằng bé hết hồn, ôm mặt ù té chạy. Bỗng nghe có tiếng người gọi sau lưng :
- Mày chớ sợ, đừng chạy nữa ! Ta trả lại bày dê cho mày nguyên lành đây này !
Nó ngoảnh cổ nhìn, thấy Tả Từ đã cho bày dê sống lại, và đang bước tới gọi. Nó mừng tíu tít, đang toan hỏi chuyện ông khác lạ, thì Từ đã phất tay áo bỏ đi, bước chân lướt thướt như bay, bỗng chốc đã mất hút. Đứa bé về thuật chuyện với chủ. Chủ nó không dám dấu diếm, phải đi báo Tào Tháo. Tháo bèn sai vẽ hình dạng in tướng mạo Tả Từ, dán yến khắp nơi truyền lệnh tróc nã kỳ được. Chỉ trong ba ngày, khắp trong thành ngoài quận, đâu đâu cũng bắt được người hiếng một mắt, khiễng một chân, đội mũ mây, mặc áo xanh, đi đôi guốc gỗ, giải về nạp đến ba bốn trăm người giống hệt nhau như thế. Tiếng bàn tán xôn xao chợ búa, náo động phố phường ! Tháo sai các tướng lấy máu lợn, máu dê hắt vào, rồi áp giải ra giáo trường ở cửa Nam. Tháo tự đem năm trăm giáp sĩ vây kín xung quanh truyền lệnh chém hết mấy trăm Tả Từ ấy ! Những cái đầu vừa rụng xuống thì mỗi cái cổ họng đều phun ra khí xanh, bay lên không trung tụ lại thành một đám, rồi hoá ra một...ông Tả Từ ! Tháo ngẩng nhìn thấy Từ đưa tay lên trời vẫy một cãi, tức thì một con hạc trắng bay tới. Từ cưỡi hạc, vỗ tay cười lớn, gọi xuống rằng :
- Chuột đất theo Cọp vàng, ấy là ngày...gian hùng hết kiếp ! A ha ha !
Tháo căm tức, truyền các tướng giương cung bắn lên. Bỗng thấy cuồng phong nổi đùng đùng, cát đã bay mù mịt. Những cái thấy người bị chém năm dưới đất bỗng nhổm dậy một loạt, quờ tay ôm lấy đầu, rồi xạch chạy lên lầu diễn võ, sấn vào đánh Tào Tháo ! Văn quan võ tướng đều hoảng hồn, kinh hãi ôm mặt lăn kềnh, còn Tháo thì ngã lăn xuống đât !
Lát sau gió lặng, những thây người biến đi hết. Các quan hầu dìu Tháo vào về cung. Tháo lo sợ mà phát bệnh. Người sau có thơ khen Tả Từ rằng :
Phi bộ lãng vân biến Cửu Châu
Độc bằng độn giáp tự ngao du,
Đằng nhàn thí thiết thần tiên thuật,
Điểm ngộ Tào Man bất chuyển đầu !
Vu Cát
Hôm đó, Tôn Sách và các tướng lĩnh đang chuyện trò bỗng các tướng thì thầm nhau, truyền tai người này tới người kia rồi kéo cả xuống lầu. Sách lấy làm quái lạ, hỏi cớ làm sao, thì tả hữu thưa rằng :
- Có Vu thần tiên tới đây, đang đi qua dưới lầu nên các tướng xuống nghênh bái đấy ạ.
Sách đứng dậy, tựa lan can nhìn ra xem thì thấy một đạo nhân mình khoác áo lông hạc, tay chống gậy lê, đang đứng giữa đường. Dân chúng kéo đến rất đông, đốt hương vái lạy thì thụp hai bên. Sách bỗng nổi giận mà rằng :
- Đồ yêu quái nào đó ? Ra bắt về đây cho ta !
Tả hữu kêu xin :
- Bẩm chúa công, vị này họ Vu, tên Cát, ngụ ở phương Đông, thường qua Ngô Hội, ban bùa phép, trị bách bệnh cứu người linh nghiệm vô cùng. Người người đều tôn là thần tiên. Thiết tưởng không nên khinh trách, bắt bớ...
Sách lại càng giận sôi lên, bắt phải ra điệu vào tức khắc. Nết trái lệnh chém đầu ngay. Tả hữu bất đắc dĩ phải xuống lầu, đưa Vu Cát lên. Sách mắng :
- Đồ cuồng sĩ ! Sao dám phiến hoặc nhân tâm ?
Vu Cát nói :
- Bần đạo vốn là đạo sĩ ở Lang Gia cung. Thời Thuận Đế, thường vào núi hái thuốc, một hôm tới suối Khúc Dương, được bộ thần thư tên là " Thái Bình thanh lĩnh đạo " gồm hơn trăm quyển, đều là những phương thuật trị bệnh tật cho người. Bần đạo được sách này, chỉ muón thay trời tuyên hoá phổ cứu muôn người, chưa từng lấy của ai một tờ hào, sao gọi là " mê hoặc nhân tâm được " ?
Sách mắng :
- Mày không tơ hào của người, thế thì lấy đâu ra cơm ăn, áo mặc ? Mày chính là lưu manh, thuộc lũ Khăn vàng Trương Giác, nay nếu không giết, ăt tai họa về sau.
Mắng rồi thét tả hữu đem chém.
...
Lã Phạm nói :
- Tôi được biết Vu Đạo nhân có phép cầu gió gọi mưa. Nay đang lúc trời hạn hạn, sao không sai đạo nhân đảo vũ để chuộc tội ?
Vu Cát nhìn quanh bảo mọi người đứng gần :
- Ta sẽ cầu được ba thước nước mưa để cứu muôn dân, nhưng ta vẫn không thoát khỏi cái chết đâu !
Mọi người đều nói :
- Nếu cầu đảo linh nghiệm ắt chúa công kính phục chứ ?
Cát lắc đầu :
- Khí số đã đến thế này, ta khó mà thoát được.
Chốc lát, đường phố chợ búa ngập như sông, khe suối đầy tràn mênh mông, được đủ ba thước nước. Bấy giờ Vu Cát thét lớn một tiếng, tự dưng thấy mây tan, mưa tạnh. Mặt trời lại ló ra, nắng đẹp như cũ. Tức thì quan dân lăn mình vào chỗ bùn nước thì thụp bái lạy Vu Cát, chẳng kể gì lấm mình ướt áo. Tôn Sách đột nhiên nổi giận đùng đùng lên truyền :
- Mưa nắng là do định sô của trời đất, thằng yêu quái kia ngẫu nhiên gặp đc số đấy thôi. Sao lũ các ngươi mê loạn như thế ?
Dứt lời rút bảo kiếm, truyền tả hữu chém Vu Cát một đao rụng đầu xuống đất ! Bỗng thấy từ cổ Vu Cát phụt lên một luồng khí xanh rồi bay vụt về phía Đông Bắc ! Sách sai đem thây Cát ra bêu ngoài chợ làm lệnh, cho rõ cái tội " yêu vong " mê hoặc nhân tâm. Đêm ấy mưa gió ầm ĩ liên miên. Sáng hôm sau, không thấy đầu và xác Vu Cát đâu nữa.
Quân sĩ canh xác vội báo với Sách. Sách nổi giận đang toan chám đầu bọn quân ấy, chợt thấy trước nhà có một người lừ đừ đi vào, nhìn kỹ té ra... Vu Cát.! Sách giận dữ, toan rút gươm ra chém, bỗng nhiên mê mẩn tâm thần, ngất lăn xuống đất.
Canh ba đêm ấy, Sách nằm ở nhà trong, bỗng gió lạnh thổi lùa vào, đèn nến tắt hết...ròi lại sáng. Nhìn vào chỗ bóng đèn, bỗn thấy Vu Cát sờ sờ đứng trước giường ! Tôn Sách lấy thanh kiếm ở đầu giường lao vút một cái, nhưng Vu Cát đã biến mất !
Ngô Thái phu nhân nghe tin, lòng vô cùng phiền muộn, bèn bảo sách lễ bái. Sách không dám trái ý mẹ, đành miễn cưỡng bước lên kiệu, tới Ngọc Thanh quán. Các đạo sĩ đón rước vào đàn, mời Sách đốt hương. Sách cũng đốt hương, nhưng không chịu vái. Bỗng thấy khói xanh trong lư hương bốc thanửg lên mà không tỏa ra, ciứ tụ lại rất gọn ghẽ rồi kết lại thành một tòa " hoa cái ". Trên tòa hoa ấy có một người ngồi chễm chệ : chính Vu Cát.
Sách nổi giận, nhổ nước bọt vào đấy, vừa mắng chửi Vu Cát, vừa kíp ra khỏi điện. Nhưng ra đến cửa đã thấy Vu Cát đứng đó, mắt trừng trừng nhìn sách. Sách rút gươm nhắm thẳng vào mặt Vu Cát mà lao, nhưng gươm ấy lại trúng và một trên lính chết gục xuống. Mọi người nhìn ra, thì chính tên lính đã chém đầu Vu Cát hôm trước. Sách tức giận đốt quán đi, nhà đang cháy bỗng thấy Vu Cát hiện ra đứng lồ lộ trên đám lửa.
Sách căm giận, bỏ về phủ, nhưng lại thấy Vu Cát đứng ngay trước cửa ! Sách bèn không vào phủ nữa, đi điểm quân. Đêm ấy Sách ngủ trong trại, lại thấy Vu Cát xũ tóc hiện đến. Sách gầm thét trong trường ầm ĩ suốt đêm.
Hôm sau, Ngô Thái phu nhân truyền mệnh tới gọi Sách về phủ. Sách vâng lời, ra mắt mẹ. Bây giờ phu nhân thấy Sách hình dung tiều tụy, khóc òa lên ràng :
- Con thất sắc quá rồi con ơi !
Sách lại trước gương soi... quả thấy hình dung mười phần hao tổn, bất giác thất kinh, quay bảo tả hữu :
-Vì sao ta tiều tụy thế này ?
Nói chưa dứt lời bỗng thấy Vu Cát đứng sờ sờ trong gương, Sách đập ngay gương đi, thét lớn một tiếng, lăn xuống đất bất tỉnh.
Ngô Thái phu nhân sai người vực vào nhà trong. Chốc lát Sách tỉnh lại than rằng :
- Ta không thể sống nổi nữa rồi.
Bèn triệu Trương Chiêu, Tôn Quyền, Kiều phu nhân ( tức Đại Kiều ) đến dặn dò. Sau khi để lại di nguyện, Sách nhắm mắt từ trần. Năm ấy Sách mới hai mươi sáu tuổi.
Hoa Đà
Quan Bình thấy cha bị thương nặng, bèn bàn với chư tướng đưa Quan Công về Kinh Châu dưỡng bệnh.
Quan Công thấy thế mắng rằng :
- Phàn Thành nay đã nguy ngập. Thành ấy ta đã lấy được trước mặt rồi, há vì vết thương nhỏ này mà lui binh sao ?
Chư tướng thấy vậy, bèn đi tìm lương y điều trị.
Ngày kia, bỗng có người ngồi trên thuyền nhỏ ở Giang Ðông đi qua. Quan Bình hỏi, người ấy xưng là Hoa Ðà, nghe tin Vân Trường bị thương nặng nên tìm đến chữa.
Quan Bình cả mừng, nói :
- Tôi nghe danh tiên sinh đã lâu, nay lại đích thân đến, ơn ấy ngàn ngày không quên.
Nói đoạn, mời Hoa Ðà đến gặp Vân Trường.
Hoa Ðà xem vết thương nói :
- Tên có tẩm thuốc độc đã tới xương rồi. Phải trị ngay, nếu chậm sẽ nguy khốn.
Quan Công hỏi :
- Phải dùng thuốc chi ?
Hoa đà nói :
- Phải trồng một cây trụ nơi vắng vẻ. Tướng công phải chịu cho tôi cột vào cây trụ đó, lấy vải bịt mắt để khỏi thấy việc tôi làm.
Vân Trường hỏi :
- Chữa cách gì mà lạ vậy ?
Hoa Ðà nói :
- Tôi phải lóc thịt ra, cạo xương cho hết chất độc. Nếu không cột vào trụ, hoặc để nhìn thấy, ngài sẽ không chịu nổi. Vân Trường cười :
- Có gì mà không chịu nổi !
Nói rồi liền khiến Hoa Ðà cứ việc làm. Còn mình vẫn ngồi đánh cờ với Mã Lương.
Hoa Ðà lấy dao mổ vết thương, tiếng kêu kén két nghe rợn óc, mọi người đều tái mặt rùng mình, ai nấy lấy tay che mắt. Thế mà Quan Công vẫn thản nhiên uống rượu nhắm thịt cười nói, đánh cờ...
Lát sau, máu chảy đầy chậu, Đà đã nạo gọt hết chỗ xướng ngấm độc, mới rịt thuốc vào, lấy chỉ khâu lại. Đà vừa ngừng tay, thì Quan Công cười lên ha hả, đứng thẳng dậy, bảo các tướng :
- Cánh tay này lại co duỗi được như thường rồi, không thấy, đau đớn gì nữa !
Rồi bảo Hoa Đà :
- Ta chưa thấy thầy thuốc nào giỏi thế này. Tiên sinh quả là bậc thần y !
Đà cũng nói :
- Cả đời tôi đi chữa thuốc chưa thấy ai gan đến thế ! Tướng quân thật là vị thiền thần !
Quan Công sai đem ra trăm lạng vàng trả công. Nhưng Đà từ chối :
- Tôi nghe quân hầu là bậc cao nghĩa anh hùng, nên tìm đến trị giúp. Chứ đâu có mong lấy công ?
Rồi ông để thuốc lại cho Quang Công và từ biệt mà đi.
Ít lấu sau, Tào Tháo bị chứng đau đầu, uống thuốc gì cũng không khỏi. Trong số các quan đến thăm có Hoa Hâm thưa :
- Ðại vương có nghe danh thần y Hoa đà ?
Tào đáp :
- Ta cũng nghe danh.
Hoa Hâm bảo Tháo :
- Người ấy giỏi thật chẳng khác gì Biển Thước, Thương Công xưa, hiện nay đang ở Kim Thành, cách đây không xa. Đại vương nên triệu đến mà chữa.
Tháo liên sai người đi mời về. Vài ngày sau, Hoa Ðà tới. Xem mạch xong nói với Tào :
- Ðại vương bị chứng phong. Phong nó dồn lên óc phải bửa óc ra mà nạo thì mới lành.
Tào nghe nói thất kinh, bèn hỏi :
- Ngươi muốn hại ta sao ?
Hoa Ðà cười, nói :
- Xưa Vân Trường bị mũi tên ở cánh tay, tôi phải mổ xương mà nạo, Vân Trường không sợ gì hết.
Tào Tháo nói :
- Cánh tay khác, óc khác. Bộ ngươi là kẻ thân của Vân Trường đến hại ta sao ?
Nói xong truyền giam Hoa Ðà vào ngục, các quan can ngăn không được.
Lúc ấy có viên cai ngục tên Ngô Áp Ngục, đã nghe dành Hoa Đà từ lâu, hàng ngày đem cơm rượu cung phụng. Hoa Ðà cảm nghĩa ấy, tặng Áp Ngục cuốn sách gọi là Thần Y Thư Thanh Nang. Ngô Áp Ngục cả mừng, lãnh về giấu đi. Cách ít ngày Hoa Ðà chết trong ngục, Ngô lo an táng tử tế rồi bỏ nghề lính ngục, về nhà đem bộ sách ra học để làm thầy thuốc. Nhưng khi về đến cổng thì mụ vợ đã đốt hết, chỉ còn lại vài tờ. Áp Ngục quở trách thì mụ vợ nói :
- Nếu mình có học giỏi như Hoa Đà, rôi chẳng qua chết trong lao tù mà thôi ! Quý báu gì cuốn sách này ?
Ngô chép miệng thở dài, tiếc ngẩn người ra một hồi rồi cũng đành thôi. Vì thế, bộ sách quý không được truyền đến đời sau. Người sau có thơ than rằng :
Hoa Đà thuốc thánh không hai,
Coi bệnh như trong thầy tạng người.
Người mất, sách hay kia cũng mất,
Thanh Nang chẳng để lại cho đời.
Diêm La Vương
Diêm vương (閻王) hay Diêm-la (閻羅) ( phiên âm Hán-Việt đầy đủ là Diêm-ma vương 閻魔王 hay Diêm-la vương 閻羅王), là chúa tể của địa ngục. Mô tả về Diêm vương thay đổi tùy theo nền văn hóa.
Trong huyền thoại Phật giáo, Diêm vương nguyên là vua của xứ Vệ-xá-li . Trong một trận chiến tranh đẫm máu, ông ước nguyện làm vua địa ngục và quả nhiên được tái sinh làm Diêm vương. Diêm vương có 8 tướng quân và 80.000 binh sĩ. Mỗi ngày ba lần Diêm vương và các tướng sĩ phải chịu hình phạt bị đổ đồng sôi vào miệng cho đến khi tội ác của họ được tha thứ. Diêm vương là người phái cái già, cái chết đến cho con người, nhắc nhở họ đừng làm gì trái với đạo lí.
Diêm vương tuy cai trị Địa ngục nhưng vẫn sống có đạo lý, có quy y Phật, khác với Ma vương là kẻ phỉ báng thánh thần, gieo rắc tội ác.
Tứ Hải Long Vương
Tứ hải Long vương là các vị thần có dạng rồng cai quản bốn đại dương theo thần thoại Trung Hoa.
Hình tượng các long vương vốn có xuất xứ từ Phật giáo, là hiện thân của rắn thần naga được Trung Quốc du nhập và Hán hóa
Tứ hải long vương bao gồm:
Đông hải Long vương Ngao Quảng
Tây hải Long vương Ngao Khâm
Nam hải Long vương Ngao Thuận
Bắc hải Long vương Ngao Nhuận
Long Vương là tổng quản của thủy tộc. Dân gian cho rằng phàm chỗ nào có nước như sông, hồ , biển, ao, đầm....đều có Long Vương.Long Vương có thể hô mưa gọi gió, tạo nên sấm sét, nên người ta thờ Long Vương làm thần mưa gió. Nếu hạn hán lâu ngày, dân chúng sẽ đền miếu Long Vương cầu mưa. Vẫn chưa thấy hiển linh, họ sẽ mang tượng thần Long Vương ra phơi ngòai nắng cho đến khi có mưa mới thôi. Cổ nhân cho rằng bốn bể đông, tây, nam,bắc có bốn Long Vương cai quản, còn gọi là Tứ Hải Long Vương. Ngoài ra còn có Ngũ Phương Long Vương, Chư Thiên Long Vương, Giang Hà Long Vương....
Tích xưa kể rằng thời sơ Đường, ở tỉnh An Huy, huyện Dĩnh Thượng, thôn Bách Xã,, có một người tên là Trương Lộ Tư , vợ họ Thạch, sinh đựoc 9 đứa con trai. Trương Lộ Tư từng làm quan Chiếu Linh hầu ở tỉnh Hà Nam, sau khi từ quan về làng, thường đến một nơi gọi là Tập thị đài bên dòng sông câu cá. Một hôm ở nơi ông câu cá đột nhiên mọc lên một cung điện. Ông thấy lạ bèn vào đó xem, thế là hóa thành Long Vương. Từ đó, ngày ngày sáng sớm ông tới Long Cung, chiều tối mới trở về, quần áo lần nào cũng ướt sũng.Vợ con hỏi vì sao, ông nói :"Ta đã thành Long Vương, ở vùng khác có một nguoiwf tên Trịnh Tường cũng thành Long Vương. Hắn muốn chiếm đạot địa bàn của ta. Hắn hẹn ta ngày mai quyết chiến, ai thua sẽ mất địa bàn. Vậy sớm mai phu nhân hãy sai 9 đứa con đi trợ chiến cho ta, người trùm khăn đỏ là ta, đầu chít khăn xanh là Trịnh Tường, nhớ kẻo lầm".
9 người con của Trương Lộ Tư nghe lời, hôm sau mang cung nỏ ra đi trợ chiến, cứ nhằm kẻ chít khăn xanh mà bắn. Trịnh Tường trúng tên mà chết. Năm 894-898 đời Đường Càn Ninh, quan thứ sử Vương Kính Nghiêu xây Long Vương miếu ở Châu Dĩnh thờ Long Vương Trương Lộ Tư.
Mạnh bà
Theo truyền thuyết, sau khi con người chết đi, linh hồn của họ sẽ bị đưa đến các điện địa ngục để chịu tội cho đến khi đi đến điện thứ 10, là khu Vong Đài của Mạnh Bà. Tại đây họ trải qua quá trình chuẩn bị đầu thai sang kiếp khác. Con đường dẫn tới điện của Mạnh Bà được gọi là đường Hoàng Xuân.
Người ta kể rằng Mạnh Bà sống vào thời Tây Hán. Bà đã đọc sách Nho giáo từ khi tuổi còn nhỏ, sau này lớn lên lại tiếp tục học kinh điển Phật giáo. Mạnh Bà đã sống một cuộc đời ‘quá khứ không truy cầu, tương lai không vọng tưởng’. Bà dồn tâm sức khuyên bảo mọi người không sát sinh, ăn chay thanh tịnh. Bà vẫn còn trong trắng cho đến khi đã 81 tuổi. Người thời đó gọi bà là Mạnh Bà. Sau này, Mạnh Bà đã lên núi tu hành và đắc Đạo.
Vào thời Đông Hán, nhiều người có thể kể về những chuyện trong đời trước của họ. Vậy nên thiên cơ đều bị tiết lộ. Vì thế thiên thượng bèn cử Mạnh Bà làm thần U Minh phụ trách các linh hồn sắp được chuyển sinh thành người.
Món canh Quên Lãng của Mạnh Bà được nấu bằng thảo mộc của thế giới con người. Nó giống như rượu và có 5 vị: ngọt, đắng, cay, mặn và chua. Bất cứ ai muốn chuyển sinh sang kiếp khác cũng phải uống món canh này. Với những linh hồn tìm cách bỏ trốn và không chịu uống canh Mạnh Bà, lập tức sẽ xuất hiện hai cái móc trồi lên từ dưới đất giữ chặt chân họ và một cái ống đồng sắc nhọn sẽ cứa vào cổ họng để bắt họ uống món canh.
Theo truyền thuyết, canh Mạnh Bà có thể xóa hết ký ức về những đời trước của một người, đó là lý do vì sao người ta đến trong cuộc đời này mà chẳng hề nhớ gì về những đời trước của mình, và bị mê mờ bởi danh, lợi và tình trong cõi trần tục này.
Viêm ĐếThần Nông (chữ Hán phồn thể: 神農, giản thể: 神农, bính âm: Shénnóng), còn được gọi là Viêm Đế (炎帝) hay Ngũ Cốc Tiên Đế (phồn thể: 五穀先帝, giản thể: 五谷先帝, bính âm: Wǔgǔ xiāndì), là một vị vua huyền thoại của các dân tộc chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa, một trong Tam Hoàng và được xem là một anh hùng văn hóa Trung Hoa. Theo truyền thuyết, Thần Nông sống cách đây khoảng 5.000 năm và là người đã dạy dân nghề làm ruộng, chế ra cày bừa và là người đầu tiên đã làm lễ Lễ Tịch Điền (còn gọi là lễ Thượng Điền, tổ chức sau khi gặt hái, thu hoạch mùa màng) hoặc Hạ Điền (lễ tổ chức trước khi gieo trồng), cũng như nghề làm thuốc trị bệnh, cho nên trong dân gian có câu Thần Nông giáo dân nghệ ngũ cốc (tức Thần Nông dạy dân trồng ngũ cốc). Thần Nông cũng có thể là từ để chỉ tới các thần dân của vị vua nói trên, do cụm từ Thần Nông thị/神農氏/神农氏/Shén nóng shì với chữ thị (氏) có thể được hiểu là thị tộc, bộ lạc, dòng họ hay gia đình. Nó cũng có thể có nghĩa là họ/tên thời con gái (do đàn bà tự xưng mình cũng gọi là thị, có lẽ ẩn chứa truyền thống tiền gia tộc và chế độ phụ hệ). Trong bất kỳ trường hợp nào, Thần Nông khi được hiểu như là một nhóm sắc tộc tiền sử không nên lẫn lộn với Thần Nông khi được hiểu như là "ông tổ" truyền thống, được lấy tên theo đó của nhóm sắc tộc này. Tuy nhiên, do chữ thị (氏) cũng có thể là thuật ngữ danh giá để chỉ một người đàn ông, giống như các từ ngài/quý ông, nên sự mơ hồ là vĩnh cửu: Thần Nông thị/神農氏/神农氏/Shén nóng shì hay chỉ đơn giản là Thần Nông, được sử dụng để nói tới một cá nhân và/hoặc nói tới chức tước của cá nhân đó. Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào từng ngữ cảnh.
Trong thần thoại Trung Quốc, Thần Nông, ngoài việc là ông tổ nông nghiệp, người đã dạy dân trồng ngũ cốc và chế tạo ra cày bằng gỗ, ông tổ nghề gốm sứ và nghề y dược, thì đôi khi ông cũng được coi là tổ tiên hay thủ lĩnh của Xi Vưu; và giống như ông này, Thần Nông cũng là người có đầu giống đầu bò, sừng nhọn, trán đồng, đầu sắt. Một khác biệt giữa huyền thoại và khoa học được thể hiện trong thần thoại Trung Hoa: Thần Nông và Hoàng Đế được coi như là những người bạn và đồng học giả, cho dù giữa họ là khoảng thời gian trên 500 năm giữa vị Thần Nông đầu tiên và Hoàng Đế, và cùng nhau họ chia sẻ những bí quyết giả kim thuật dùng trong y dược, khả năng bất tử và chế tạo vàng
Theo sự bổ sung của Tư Mã Trinh vào Sử ký thì Thần Nông là bà con với Hoàng Đế và được coi là ông tổ của người Trung Quốc. Người Hán coi cả hai đều là tổ tiên chung của mình với thành ngữ "Viêm Hoàng tử tôn" (con cháu Viêm Hoàng). Ông chết do nếm phải một loại độc thảo mà không kịp lấy thuốc chữa, sau một thời gian dài từng nếm rất nhiều các loại độc thảo khác nhau. Ông được thần thánh hóa như là một trong số ba vị vua huyền thoại danh tiếng nhất, gọi chung là Tam Hoàng vì những đóng góp của mình cho loài người.
Khó có thể nói Thần Nông là một nhân vật lịch sử có thật hay không. Tuy nhiên, Thần Nông, dù là một cá nhân hay một thị tộc, là rất quan trọng trong lịch sử văn hóa -- đặc biệt khi nói tới thần thoại và văn học dân gian. Trên thực tế, Thần Nông được nhắc tới rất nhiều trong văn học lịch sử.
Tây Sở Bá vương
[/center]
Hạng Tịch (項籍) (232 TCN-202 TCN), tên tự là Vũ/Võ (羽), còn gọi là Tây Sở Bá Vương (西楚霸王). Ông là một nhà chính trị, một tướng quân nổi tiếng, người có công trong việc lật đổ nhà Tần và tranh chấp thiên hạ với Hán Cao Tổ (Lưu Bang) đầu thời nhà Hán.
Tiểu sử
Hạng Vũ có tên húy là Tịch, người đất Hạ Tương. Vũ là tên tự của ông. Hạng Vũ là cháu nội đại tướng Hạng Yên nước Sở thời Chiến Quốc, người bị tướng nước Tần là Vương Tiễn giết.
Theo Sử ký, họ Hạng đời đời làm tướng nước Sở, được phong đất ở Hạng cho nên lấy họ là họ Hạng. Cha Hạng Vũ mất sớm nên ông sống với chú là Hạng Lương - con thứ của Hạng Yên.
Lúc còn nhỏ, Hạng Tịch học chữ nhưng học không nên, bèn bỏ đi học kiếm thuật, cũng không nên. Hạng Lương nổi giận mắng, Hạng Vũ nói:
Biết chữ chỉ đủ để viết tên họ mà thôi. Kiếm chỉ đánh lại một người, không bõ công học. Nên học cái đánh lại được vạn người!
Hạng Lương bèn dạy cháu binh pháp. Hạng Vũ rất mừng, nhưng ông cũng chỉ học để biết qua ý nghĩa, chứ không chịu học đến nơi đến chốn.
Hạng Lương có lần giết người, để tránh báo thù, bèn cùng Hạng Vũ bỏ trốn đến đất Ngô Trung. Hạng Lương tỏ ra là người có tài hơn các kẻ hiền sĩ và đại phu ở đất Ngô Trung, rất có uy tín trong vùng. Còn Hạng Vũ khi lớn lên mình cao hơn tám thước[1], có sức mạnh cất nổi cái vạc, tài năng, chí khí hơn người. Các con em ở đất Ngô Trung đều sợ ông.
Khi Tần Thủy Hoàng đi chơi đất Cối Kê, vượt qua Chiết Giang, chú cháu Hạng Lương và Hạng Vũ cùng đi xem. Hạng Vũ trông thấy vua Tần nói:
Có thể cướp và thay thế hắn!
Hạng Lương nghe nói vội bịt miệng cháu:
Đừng nói bậy! Bị giết cả họ bây giờ!
Tuy mắng cháu nhưng nhân việc này, Hạng Lương coi cháu là kẻ khác thường.
Biệt Ngu Cơ
Hạng vương đóng quân ở trong thành Cai Hạ, binh ít, lương hết. Quân Hán và quân chư hầu bổ vây mấy vòng. Đang đêm, Hạng vương thức dậy nghe quân Hán ở bốn mặt đều hát giọng Sở, Hạng vương kinh hoàng, nói:
Hán đã lấy được Sở rồi sao? Sao mà người Sở lại đông như thế?
Đêm đó Hạng vương uống rượu trong trướng cùng mỹ nhân Ngu Cơ. Hạng vương đau đớn cảm khái làm bài thơ, được đời sau gọi là bài "Cai Hạ ca":
Lực bạt sơn hề, khí cái thế,
Thời bất lợi hề, Truy bất thệ
Truy bất thệ hề khả nại hà,
Ngu hề, Ngu hề nại nhược hà.
Dịch:
Sức dời núi, khí trùm trời,
Ô Truy chùn bước bởi thời không may!
Ngựa sao chùn bước thế này?
Ngu Cơ, biết tính sao đây hỡi nàng?
Hạng vương ca mấy lần, Ngu Cơ múa kiếm, hát hòa theo, lời ca rằng:
Hán binh dĩ lược địa,
Tứ diện Sở ca thanh.
Trượng phu ý khí tận,
Tiện thiếp hà liêu sinh.
Dịch:
Quân Hán lấy hết đất,
Khúc Sở vang bốn bề.
Trượng phu chí lớn cạn,
Tiện thiếp sống làm chi.
Rồi Ngu Cơ tự vẫn. Tương truyền nơi máu bà đổ xuống mọc lên một thứ cỏ hễ có rót rượu gần bên thì cỏ múa lả lướt như Ngu Cơ trong tiệc rượu của Hạng Vũ. Người ta gọi cỏ ấy là "Ngu mỹ nhân thả
.
Theo Sử ký, khi Ngu Cơ chết, Hạng Vương khóc chảy nước mắt, tả hữu đều khóc, không ai có thể ngẩng lên nhìn.
A Tu La đạo
A Tu La tiếng Phạn là Asura. A Tu La có nhiều tên gọi khác nhau: A tác la, A tô la, A tố la, A tố lạc, A tu luân. Trong Kinh thường nêu ra ba loại A Tu La: 1/ A Tu La thiên đạo. 2/ A Tu La quỉ đạo. 3/ A Tu La súc đạo.
Theo Từ Điển Phật Học Huệ Quang, quyển 1, trang 84 giải thích: “A Tu La là 1 trong 6 đường, 1 trong 8 bộ chúng, 1 trong 10 giới, một trong những vị thần xưa nhất ở Ấn Độ.
Một loại quỷ thần hiếu chiến, thường bị coi là ác thần và thường tranh đấu với trời Đế Thích không ngừng nên có danh từ A Tu La trường, A Tu La chiến v.v…
Theo phẩm A Tu La Luân trong Kinh Tăng Nhất A Hàm 3 : Thân hình của A Tu La cao 84.000 do tuần, miệng rộng mỗi bề 1.000 do tuần. Còn phẩm A tu La Luân trong Kinh Trường A Hàm 20, phẩm A tu luân trong Kinh Đại Lâu Thán 2. Kinh Khởi Thế Nhân Bản 5 v.v…đều ghi rõ chỗ ở và sự tích của A Tu La.
Về nghiệp nhân của A tu la, các Kinh thường nêu ra 3 thứ nhân làm cho chúng sanh sanh trong loại nầy: Sân, mạn, nghi.
Theo Kinh Phật Vị Thủ Ca Trưởng Giả Thuyết Nghiệp Báo Sai Biệt thì liệt kê ra 10 thứ nhân làm cho chúng sanh sanh trong loài A tu la.
1.Thân làm việc ác nhỏ. 2. Miệng nói lời ác nhỏ. 3. Ý nghĩ điều ác nhỏ. 4. Khởi tâm kiêu mạn. 5. Khởi tâm ngã mạn. 6. Khởi tâm tăng thượng mạn. 7. Khởi tâm đại mạn. 8. Khởi tâm tà mạn. 9. Khởi tâm mạn mạn. 10. Hướng về các căn lành.
Hình tượng của A tu la có nhiều thuyết khác nhau. Có chỗ cho rằng: A tu la có 9 đầu, 1000 mắt, miệng phun lửa, có 990 tay, 6 chân, thân to gấp 4 lần núi Tu di. Có chỗ cho rằng: A tu la có 1000 đầu, 2000 tay; 10.000 đầu, 20.000 tay; 3 đầu, 6 tay. Có chỗ cho rằng: A tu la có 3 mặt màu xanh đen, giận dữ, lõa hình và có 6 cánh tay.
Hắc Vô Thường - Bạch Vô Thường
Câu “sanh không biết kỳ, tử lại có hạn” nói lên quan điểm nhận thức của người đời đối với việc sống chết. Còn đối với hai vị “Hắc Bạch Vô Thường” thì ai ai cũng sợ hãi, cho là hai con quỷ hại người. Ấn tượng của thế gian là, Hắc vô thường là mặc áo đen, Bạch vô thường là mặc áo trắng. Một hôm nào lỡ gặp hai vị nầy thì có nghĩa là số mạng đình chỉ , phải lo gấp "hậu sự" thôi !
Nhưng có số sách vở nói rằng, đừng nên sợ hãi khi gặp hai vị Hắc Bạch nầy, lúc đó chỉ cần bình tỉnh, thành tâm cầu bái và xin hai vị cho mình “bất cứ món đồ gì”, nhất định về sau sẽ “đại phú quí” ! Cho nên, trên bàn thờ của một số đoàn hát kịch ở một vài địa phương có thờ hai vị Hắc Bạch Vô Thường chung với Thần Tài, mà chiếc mão trên đầu hai vị có ghi câu “Nhất kiến sinh tài” (một lần thấy ta ắt có tiền).
Phần 1
www.phutu.vn/t55290p10-topic?showpost=1266539